CHUYÊN SX CUNG CẤP SỈ LẺ NHÔM THANH LÀM KHUNG LỤA RAY C BÀN IN CÁC LOẠI. CUNG CẤP PHỤ KIỆN BỌ SẮT, BỌ NHÔM KHÔNG HẠN CHẾ SỐ LƯỢNG.
LH 0937 655 551 - 0983 994 326
WEDSITE THAM KHẢO :
CUNG CẤP NHÔM KHUNG LỤA, RAY C BÀN IN CÁC LOẠI
================================================== ================================================== ====
Nhôm ( tiếng Latinh : alumen , alum ) là tên một nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn nguyên tố có ký hiệu Al và số nguyên tử bằng 13. Nguyên tử khối bằng 27 đvC. Khối lượng riêng là 2 , 7 g/cm 3 . Nhiệt độ nóng chảy là 660 o C. Nhôm là nguyên tố phổ thông thứ 3 ( sau ôxy và silic ) , và là kim khí phổ thông nhất trong vỏ địa cầu. Nhôm chiếm khoảng 8% khối lớp rắn của địa cầu. Kim khí nhôm hiếm biến hóa hóa học mạnh với các mẫu quặng và hiện diện giữ lại trong các môi trường khử cực mạnh. Tuy thế , nó vẫn được tìm thấy ở dạng hợp chất trong hơn 270 loại khoáng chất khác nhau. [4] Quặng chính chứa nhôm là bô xít .
Nhôm có điểm đáng chú ý của một kim khí có tỷ trọng thấp và có khả năng chống bào mòn cảnh tượng bị động. Các thành phần nông dân kiến trúc được làm từ nhôm và hợp kim của nó là rất quan yếu cho ngành công nghiệp Kĩ sư vũ trụ và rất quan trọng trong các lĩnh vực khác của giao thông vận tải và nguyên liệu cấu trúc. Các hợp chất hữu ích nhất của nhôm là các ôxít và sunfat.
mặc dầu nó hiện diện phổ thông trong môi trường nhưng các muối nhôm không được bất kỳ dạng sống nào sử dụng. Với sự phổ biến của nó , nhôm được thu nạp tốt bởi cây cỏ và động vật. [5]
Từ "nhôm" trong tiếng Việt có nguyên lai từ aluminium trong tiếng Pháp .
mục đề [ ẩn ]
1 thuộc tính
2 Lịch sử
3 vận dụng
4 Sự phổ biến , pha chế
5 Đồng vị
5.1 Cụm
6 cảnh báo
7 Hóa học
7.1 trạng thái ôxi hóa 1
7.2 trạng thái ôxi hóa 2
7.3 thể trạng ôxi hóa 3
8 có tác động đến một điều gì đó lên cây cỏ
9 chú giải
10 tham khảo
11 kết liên ngoài
thuộc tính [ sửa sửa mã nguồn ] Nhôm là một kim khí mềm , nhẹ với màu xám bạc ánh kim mờ , vì có một lớp mỏng ôxi hóa tạo thành rất nhanh khi nó để trần ngoài không khí . Tỷ trọng riêng của nhôm chỉ khoảng một phần ba sắt hay đồng ; nó rất mềm ( chỉ sau vàng ) , dễ uốn ( đứng thứ sáu ) và dễ dàng gia công trên máy móc hay đúc; nó có khả năng chống bào mòn và vững bền do lớp ôxít canh gác. Nó cũng không nhiễm từ và không cháy khi để ở ngoài khí trời ở điều kiện thông thường .
Sức bền của nhôm tinh khiết là 7–11 MPa , trong lúc hợp kim nhôm có độ bền từ 200 MPa đến 600 MPa. [6] Các nguyên tử nhôm sắp đặt thành một cấu trúc lập phương tâm mặt ( fcc ). Nhôm có năng lượng xếp lỗi vào khoảng 200 mJ/m 2 . [7]
Nhôm biến hóa với nước tạo ra hydro và năng lượng:
2 Al + 6 H 2 O → 2 Al( OH ) 3 + 3 H 2
thuộc tính này có xác xuất dùng để sản xuất hydro , tuy nhiên biến hóa này chóng vánh dừng lại vì tạo lớp kết tủa keo lắng xuống , ngăn cản biến hóa xảy ra. [8]
Khi ngâm trong dung dịch kiềm đặc , lớp màng này sẽ bị gây thiệt hại nhiều theo phản ứng
Al( OH ) 3 +NaOH → NaAlO 2 + 2H 2 O
tiếp chuyện Al lại hiệu quả với nước như phản ứng trên. Quá trình này lại diễn ra đến khi Al không bị hòa tan hết.
Lịch sử [ sửa sửa mã nguồn ] Tham chiếu hàng đầu tới nhôm ( mặc dù chẳng thể chứng minh ) là trong Naturalis Historia của Gaius Plinius Secundus ( tức Pliny anh ):
Có một càng ngày càng người thợ vàng ở Roma được phép cho hoàng đế Tiberius xem một chiếc đĩa ăn làm từ một kim loại mới. Chiếc đĩa rất nhẹ và có màu sáng như bạc . Địa ngục thợ vàng nói với hoàng đế rằng ông đã sản xuất kim khí từ đất thó thô. Ông cũng cam kết với hoàng đế rằng chỉ có ông ta và chúa Trời biết cách sản xuất kim loại này từ đất sét. Hoàng đế rất thích thú , và như một chuyên gia về tài chính ông đã quan tâm tới nó. Tuy nhiên ông nhận ngay ra là mọi Chia của cải vàng , bạc của ông sẽ mất giá trị giả dụ người dân bắt đầu làm ra kim khí màu sáng này từ đất sét. Bởi thế , thay vì cám ơn người thợ vàng , ông đã ra lệnh chặt đầu ông ta . [9] [10]
Những người Hy Lạp và La Mã cổ đại đã sử dụng các loại muối của kim loại này như là thuốc cẩn màu ( nhuộm ) và như chất làm se vết thương , và Phèn trắng vẫn được sử dụng như chất làm se. Năm 1761 Guyton de Morveau đề xuất cách gọi gốc của Phèn trắng là alumine . Năm 1808 , Humphry Davy rõ ràng được gốc kim loại của phèn chua ( alum ) , mà theo đó ông đặt tên cho nhôm là aluminium .
tên tuổi của Friedrich Wöhler nói chung được gắn liền với việc phân lập nhôm vào năm 1827 . Tuy nhiên , kim khí này đã được làm ra lần hàng đầu trong dạng không nguyên chất hai năm trước bởi nhà vật lý và hóa học Đan Mạch Hans Christian Ørsted .
Nhôm được chọn làm chóp cho đài kỷ niệm Washington vào thời gian khi một aoxơ ( 28 , 35 g ) quý báu bằng hai lần ngày lương của người lao động. [11]
Charles Martin Hall nhận được bằng sáng chế ( số 400655 ) năm 1886 , về quy trình điện phân để sản xuất nhôm. Henri Saint-Claire Deville ( Pháp ) đã hoàn thiện biện pháp của Wöhler ( năm 1846 ) và biểu lộ nó trong cuốn sách năm 1859 với hai cải tiến trong quy trình là thay thế kali thành natri và hai thay vì một ( chlorure )??. Phát minh của quy trình Hall-Héroult năm 1886 đã làm cho việc làm ra nhôm từ khoáng chất trở thành không đắt tiền và ngày nay nó được sử dụng rộng rãi trên thế giới.
Nước Đức trở thành nhà làm ra nhôm lớn nhất thế giới sau khi Adolf Hitler lên nắm quyền. Tuy nhiên , năm 1942 , những nhà máy thủy điện mới như Grand Coulee Dam đã cho phép Mỹ những thứ mà nước Đức quốc xã không thể lạc quan cạnh tranh: khả năng sản xuất đủ nhôm để có xác xuất làm ra 60.000 máy bay khu trục trong bốn năm. [12] .
áp dụng [ sửa sửa mã nguồn ] Tính theo cả số lượng lẫn giá trị , việc sử dụng nhôm vượt tất thảy các kim khí khác , trừ sắt [13] , và nó đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thế giới. Nhôm nguyên chất có sức chịu kéo thấp , nhưng tạo ra các hợp kim với nhiều nguyên tố như đồng , kẽm , magiê , mangan và silic [14] . Khi được gia công cơ-nhiệt , các hợp kim nhôm này có các thuộc tính cơ học tăng lên đáng kể.
Các hợp kim nhôm tạo thành một thành phần nông dân quan trọng trong các máy bay và tên lửa do tỷ lệ sức bền cao trên cùng khối lượng.
Khi nhôm được bay hơi trong chân không , nó tạo ra lớp bao phủ như: âm ba cả ánh sáng và bức xạ nhiệt . Các lớp bao trùm này gây nên một lớp mỏng của ôxít nhôm canh gác , nó không bị hư hỏng như các lớp bạc bao trùm vẫn hay bị. Trên thực tiễn , gần như toàn bộ các loại gương đương đại được làm ra sử dụng lớp như: âm ba bằng nhôm trên mặt sau của sao thủy . Các gương của kính thiên văn cũng được phủ một lớp mỏng nhôm , nhưng là ở mặt trước để tránh các v bên trong mặc dầu điều này làm cho bề mặt nhạy cảm hơn với các tổn thương.
Các loại vỏ phủ nhôm đôi khi được dùng thay vỏ phủ vàng để phủ vệ tinh nhân tạo hay khinh khí cầu để tăng nhiệt độ cho chúng , nhờ vào đặc tính hấp thu bức xạ điện từ của mặt trời tốt , mà bức xạ hồng ngoại vào ban đêm thấp.
Hợp kim nhôm , nhẹ và bền , được dùng để tang tạo các chi tiết của công cụ tải ( ôtô , máy bay , xe tải , toa xe tàu hỏa , tàu biển , v.v. )
Đóng gói ( can , giấy gói , v.v )
xử lý nước
Xây dựng ( cửa sổ , cửa , ván , v.v; tuy nhiên nó đã đánh mất vai trò chính dùng làm dây dẫn phần lần cuối của các mạng điện , trực tiếp đến người sử dụng. [15] )
Các hàng tiêu dùng có độ bền cao ( trang thiết bị , đồ nấu ăn , v.v )
Các đường dây tải điện ( mặc dù độ dẫn điện của nó chỉ bằng 60% của đồng , nó nhẹ hơn nếu tính theo khối lượng và rẻ tiền hơn [16]
chế tạo máy móc.
mặc dầu tự bản thân nó là không nhiễm từ , nhôm được sử dụng trong thép MKM và các từ thạch Alnico .
Nhôm siêu tinh khiết ( SPA ) chứa 99 , 980%-99 , 999% nhôm được sử dụng trong Công lao điện tử và làm ra đĩa CD .
Nhôm dạng bột thông thường được sử dụng để tạo màu bạc trong sơn. Các bông nhôm có xác xuất cho thêm vào trong sơn lót , chủ yếu là trong xử lí gỗ — khi khô đi , các bông nhôm sẽ tạo ra một lớp kháng nước rất tốt.
Nhôm dương cực hóa là yên ổn hơn đối với sự ôxi hóa , và nó được sử dụng trong các chuye khác nhau của xây dựng.
phần nhiều các bộ tản nhiệt cho CPU của các máy tính hiện đại được sản xuất từ nhôm vì nó dễ dàng trong làm ra và độ dẫn nhiệt cao.
Ôxít nhôm , alumina , được tìm thấy trong tự nhiên dưới dạng corunđum , emery , ruby và saphia và được sử dụng trong sản xuất sao thủy. Ruby và saphia tổng hợp được sử dụng trong các ống tia laser để sản xuất ánh sáng có thể giao thoa .
Sự ôxi hóa nhôm tỏa ra nhiều nhiệt , nó sử dụng để làm nguyên liệu rắn cho tên lửa , nhiệt nhôm và các thành phần của pháo hoa .
phản ứng nhiệt nhôm dùng để phối chế các kim khí có nhiệt độ nóng chảy cao ( như crôm Cr Vonfarm W... )
Sự phổ quát , phối chế [ sửa sửa mã nguồn ]
Quặng Bauxite chứa nhôm. Đồng vị bền của nhôm được tạo ra khi hydro hợp hạch với magiê hoặc trong các sao lớn hoặc trong các vụ nổ siêu tân tinh . [17]
mặc dù nhôm là nguyên tố phổ quát trong vỏ trái đất ( 8 , 3% theo khối lượng ) [18] , nó lại hiếm trong dạng tự do và đã từng được cho là kim loại quý đáng được coi trọng hơn vàng ( Người ta nói rằng Napoleon III của Pháp có các bộ đồ ăn bằng nhôm dự phòng cho những người khách quý nhất của ông. Những người khách khác chỉ có bộ đồ ăn bằng vàng ). Vì thế nhôm là kim loại tự do tương đối mới trong công nghiệp và được sản xuất với số lượng công nghiệp chỉ khoảng trên 100 năm.
Nhôm khi mới được phát hiện là cực kỳ khó tách ra khỏi các loại đá có chứa nó. Vì toàn bộ nhôm của địa cầu tồn tại dưới dạng các hợp chất nên nó là kim khí khó nhận được nhất. Lý do là nhôm bị ôxi hóa rất nhanh và ôxít nhôm là một hợp chất cực kỳ vững bền , không giống như gỉ sắt , nó không bị bong ra.
Sự tái chế nhôm từ các phế thải đã trở nên một trong những thành phần quan trọng của Công lao luyện nhôm . Việc tái chế giản đơn là nấu chảy kim khí , nó rẻ hơn rất nhiều so với sản xuất từ quặng. Việc tinh chế nhôm tiêu hao nhiều điện năng; việc tái chế chỉ tiêu hao khoảng 5% năng lượng để sản xuất ra nó trên cùng một khối lượng sản phẩm. Mặc dù cho đến đầu thập niên 1900 , việc tái chế nhôm không còn là một khu vực mới. Tuy nhiên , nó là khu vực hoạt động trầm lắng cho thâu những năm cuối thập niên 1960 khi sự Phát nổ của việc sử dụng nhôm để làm vỏ của các loại đồ uống , kể từ đó việc tái chế nhôm được đưa vào trong tầm để ý của cộng đồng. Các nguồn tái chế nhôm bao gồm ôtô cũ , cửa và cửa sổ nhôm cũ , các thiết bị gia đình cũ , contenơ và các sản phẩm khác.
Nhôm là một kim khí hoạt động và rất khó phân lập nó ra từ quặng , ôxít nhôm ( Al 2 O 3 ). Việc khử trực tiếp , ví dụ với cacbon , là không kinh tế vì ôxít nhôm có điểm nóng chảy cao ( khoảng 2.000 °C ). Vì thế , nó được tách ra bằng cách điện phân – ôxít nhôm được hòa tan trong cryôlit nóng chảy và sau thời gian ấy bị khử bởi dòng điện thành nhôm kim khí. Theo công nghệ này , nhiệt độ nóng chảy của hổ lốn chỉ còn khoảng 950-980 °C. Cryôlit bổn sơ được tìm thấy như một khoáng chất ở Greenland , nhưng sau thời gian ấy được thay thế bằng cryôlit tổng hợp. Cryôlit là hỗn hợp của các florua nhôm , natri và canxi ( Na 3 AlF 6 ). Ôxít nhôm trong dạng bột màu trắng thu được từ quặng bôxít tinh chế , quặng này có vẻ đan vì chứa khoảng 30-40% ôxít sắt. Nó được tinh luyện theo công nghệ Bayer . Trước khi có công nghệ này , công nghệ được sử dụng là công nghệ Deville .
Công nghệ điện phân thay thế cho công nghệ Wöhler , là công nghệ khử clorua nhôm khan với kali .
Các điện cực trong điện phân ôxít nhôm làm từ cacbon . Khi quặng bị nóng chảy , các ion của nó chuyển động tự do. Đặc tính tại catốt mang điện âm là:
Al 3+ + 3e - → Al
Ở đây các ion nhôm bị biến chuyển ( nhận thêm điện tử ). Nhôm kim loại sau thời gian ấy chìm xuống và được đưa ra khỏi lò điện phân.
Tại cực dương ( anode ) ôxy dạng khí được tạo thành:
2O 2- → O 2 + 4e -
Cực dương cacbon bị ôxi hóa bởi ôxy . Cực dương bị hao mòn dần và phải được thay thế luôn luôn , do nó bị hao hụt do phản ứng:
O 2 + C → CO 2
trái lại với anốt , các catốt cơ hồ không bị tiêu hao trong quá trình điện phân do không có ôxy ở gần nó. Catốt cacbon được bảo vệ bởi nhôm lỏng trong lò. Các catốt bị bào mòn cốt yếu là do các phản ứng điện hóa. Sau 5-10 năm , nước phụ thuộc vào dòng điện sử dụng trong quá trình điện phân , các lò điện phân cần phải tu sửa tuốt do các catốt đã bị ăn mòn hoàn toàn.
Điện phân nhôm bằng công nghệ Hall-Héroult hao hụt nhiều điện lực , nhưng các công nghệ khác xoành xoạch có có lỗi về mặt kinh tế hay môi trường hơn công nghệ này. Chương trình hao hụt năng lượng phổ quát là khoảng 14 , 5-15 , 5 kWh/kg nhôm được sản xuất. Các lò đương đại có mức tiêu thụ điện lực khoảng 12 , 8 kWh/kg. Dòng điện để thực hành công việc điện phân này đối với các công nghệ cũ là 100.000-200.000 A . Các lò hiện tại làm việc với cường độ dòng điện khoảng 350.000 A. Các lò thí nghiệm làm việc với dòng điện khoảng 500.000 A.
Năng lượng điện chiếm khoảng 20-40% trong giá thành của sản xuất nhôm , phụ thuộc vào nơi đặt lò nhôm. Các lò luyện nhôm có xu hướng được đặt ở những lĩnh vực mà nguồn cung cấp điện dồi dào với giá điện rẻ , như Nam Phi , đảo miền nam New Zealand , Úc , Trung Quốc , Trung Đông , Nga và Québec ở Canada .
Trung Quốc hiện là nhà làm ra nhôm lớn nhất thế giới ( năm 2004 ).
Đồng vị [ sửa sửa mã nguồn ] Nhôm có chín đồng vị , số Z của chúng từ 23 đến 30. Chỉ có Al-27 ( đồng vị ổn định ) và Al-26 ( đồng vị phóng xạ , t 1/2 = 7 , 2 × 10 5 năm ) tìm thấy trong tự nhiên , tuy nhiên Al-27 có sự phổ thông trong tự nhiên là 100%. Al-26 được sản xuất từ agon trong khí quyển do va chạm sinh ra bởi các tia vũ trụ proton . Các đồng vị của nhôm có ứng dụng thực tiễn trong việc tính tuổi của trầm tích dưới biển , các vết mangan , nước đóng băng , thạch anh trong đá lộ thiên , và các tinh thạch. Tỷ lệ của Al-26 trên beryli-10 được sử dụng để Học hỏi vai trò của việc chuyển hóa , lắng đọng , lưu trữ trầm tích , thời kì cháy và sự xói mòn trong thang độ thời kì 105 đến 106 năm ( về sai số ).
Al-26 nguyên lai vũ trụ hàng đầu được sử dụng để nghiên cứu trăng và các tinh thạch . Các thành phần nông dân của tinh thạch , sau khi thoát khỏi nguyên lai của chúng , trong khi ngao du trong không gian bị tấn công bởi các tia vũ trụ , ra đời các nguyên tử Al-26. Sau khi rơi xuống địa cầu , tấm chắn khí quyển đã trông coi cho các phần tử này không ra đời thêm Al-26 , và sự phân rã của nó có khả năng sử dụng để xác định tuổi trên trái đất của các tinh thạch này. Các Học hỏi về thiên thạch cho thấy Al-26 là tương đối phổ thông trong thời gian hình thành hệ hành tinh của chúng tôi. Có xác xuất là năng lượng được phóng thích bởi sự phân rã Al-26 có liên quan đến sự nấu chảy lại và sự sai biệt của một số tiểu hành tinh sau khi chúng hình thành cách đây 4 , 55 tỷ năm. [19]
Cụm [ sửa sửa mã nguồn ] Trong tập san Science ngày 14 tháng 1 năm 2005 đã thông cáo rằng các cụm 13 nguyên tử nhôm ( Al 13 ) được tạo ra có tính chất giống như nguyên tử iốt ; và 14 nguyên tử nhôm ( Al 14 ) có thuộc tính giống như nguyên tử kim loại kiềm thổ . Các nhà Học hỏi còn kết liên 12 nguyên tử iốt với cụm Al 13 để tạo ra một lớp mới của pôlyiốtua . Sự phát kiến này được báo cáo là mở ra khả năng của các phản ứng mới của bảng tuần hoàn các nguyên tố : "các nguyên tố cụm". Nhóm nghiên cứu dẫn đầu bởi Shiv N. Khanna ( Đại học Virginia Commonwealth ) và A. Welford Castleman Jr ( Đại học tiểu bang Penn ). [20]
báo trước [ sửa sửa mã nguồn ] Nhôm là một trong ít các nguyên tố phổ thông nhất mà không có công năng hữu ích nào cho các thân thể sống , nhưng có một số người bị dị ứng với nó — họ bị các chứng viêm da do tiếp kiến với các dạng khác nhau của nhôm: các vết ngứa do sử dụng các chất làm se da hay hút mồ hôi ( phấn rôm ) , các rối loạn tiêu hóa và giảm hay mất khả năng tiếp thu các chất dinh dưỡng từ thức ăn nấu trong các nồi nhôm , nôn mửa hay các triệu chứng khác của bị trúng độc nhôm do ăn ( uống ) các sản phẩm như Kaopectate® ( thuốc chống đi tả ) , Amphojel® và Maalox® ( thuốc chống chua ). Đối với những người khác , nhôm không bị coi là chất độc như các kim khí nặng , nhưng có mật hiệu của ngộ độc nếu nó được hấp thụ nhiều , mặc dù việc sử dụng các đồ nhà bếp bằng nhôm ( phổ biến do khả năng chống bào mòn và dẫn nhiệt tốt ) nhìn chung chưa cho thấy dẫn đến tình trạng bị trúng độc nhôm. Việc tiêu thụ qua nhiều các thuốc chống chua chứa các hợp chất nhôm và việc sử dụng quá nhiều các chất hút mồ hôi chứa nhôm có lẽ là nguồn độc nhất vô nhị sinh ra sự bị trúng độc nhôm. Địa ngục ta ý rằng nhôm liên đới đến bệnh Alzheimer , mặc dầu các Học hỏi gần đây đã bị bác bỏ.
Cần cẩn trọng để không cho nhôm tiếp xúc với một số chất hóa học nào đó có thể bào mòn nó rất nhanh. Giá dụ , chỉ một lượng nhỏ thủy ngân tiếp xúc với bề mặt của miếng nhôm có thể phá hủy lớp ôxít nhôm bảo vệ thông thường có trên bề mặt các tấm nhôm. Trong vài giờ , thậm chí cả một cái xà có kiến trúc nặng nề có thể bị làm yếu đi một cách rõ rệt. Vì lý do này , các loại cũ thạch tín không được phép trong nhiều sân bay và hãng phưởng chức , vì nhôm là thành phần nông dân kiến trúc cơ bản của các máy bay.
Hóa học [ sửa sửa mã nguồn ] thể trạng ôxi hóa 1 [ sửa sửa mã nguồn ] AlH được điều chế khi nhôm bị nung nóng ở nhiệt độ 1500 °C trong hiđrô .
Al 2 O được điều chế bằng cách nung nóng ôxít thường nhật , Al 2 O 3 , với silic ở nhiệt độ 1800 °C trong chân không .
Al 2 S được phối chế bằng cách nung nóng Al 2 S 3 với vỏ nhôm ở nhiệt độ 1300 °C trong chân không. Nó chóng vánh bị chuyển thành các chất ban đầu. Selenua được phối chế tương tự.
AlF , AlCl và AlBr tồn tại trong pha khí khi ba halua được nung nóng cùng với nhôm.
thể trạng ôxi hóa 2 [ sửa sửa mã nguồn ] Subôxít nhôm , AlO có khả năng được tồn tại khi bột nhôm cháy trong ôxy .
thể trạng ôxi hóa 3 [ sửa sửa mã nguồn ] quy tắc tam suất Fajans chỉ ra rằng cation hóa trị ba Al 3+ là không được mong tìm thấy trong các muối khan hay trong các hợp chất nhị phân như Al 2 O 3 . Hiđrôxít nhôm là một bazơ yếu và muối nhôm của các axít yếu , chả hạn như cacbonat , không thể tạo ra. Muối của các axít mạnh , chả hạn như nitrat , là ổn định và hòa tan trong nước , làm nên các hiđrat với chí ít sáu phân tử nước kết tinh .
Hiđrua nhôm , ( AlH 3 ) n , có khả năng sản xuất từ trimêthyl nhôm và hiđrô dư thừa. Nó cháy kèm nổ trong không khí. Nó cũng có khả năng được phối chế bằng biến hóa của clorua nhôm trên hiđrua liti trong dung dịch ête , nhưng chẳng thể cô lập thành dạng tự do từ dung dịch.
Cacbua nhôm , Al 4 C 3 được sản xuất bằng cách nung nóng hổ lốn hai nguyên tố trên 1.000 °C. Các tinh thể màu vàng nhạt có cấu trúc lưới không đơn giản , và biến hóa với nước hay axít loãng tạo ra mêtan . Axêtylua , Al 2 ( C 2 ) 3 , được pha chế bằng cách cho axêtylen đi qua nhôm nóng.
Nitrua nhôm , AlN , có thể được sản xuất từ các nguyên tố ở nhiệt độ 800 °C. Nó bị thủy phân bởi nước tạo ra amôniắc và hiđrôxít nhôm .
Phốtphua nhôm , AlP , được sản xuất na ná , và bị thủy phân thành phốtphin ( PH 3 ).
Ôxít nhôm , Al 2 O 3 , tìm thấy trong thiên nhiên như là corunđum , và có khả năng điều chế bằng cách đốt nóng nhôm với ôxy hay nung nóng hiđrôxít , nitrat hoặc sulfat. Như là một loại đá quý , độ cứng của nó chỉ thua có kim cương , nitrua bo và cacborunđum . Nó Hầu như không hòa tan trong nước.
Hiđrôxít nhôm có xác xuất được điều chế như là một chất kết tủa dạng gelatin bằng cách cho thêm amôniắc vào trong dung dịch của các muối nhôm. Nó là lưỡng tính , vừa là bazơ yếu vừa là axít yếu , có xác xuất tạo ra các muối aluminat với kim khí kiềm . Nó tồn tại trong các dạng tinh thể khác nhau.
Sulfua nhôm , Al 2 S 3 , có xác xuất điều chế bằng cách cho sulfua hiđrô đi qua bột nhôm. Nó là một chất đa hình.
Florua nhôm , AlF 3 , có khả năng pha chế bằng cách cho hai nguyên tố tác dụng với nhau hay cho hiđrôxít nhôm tác dụng với HF. Nó làm nên phân tử lớn , bay hơi không qua pha nóng chảy ở nhiệt độ 1.291 °C ( thăng hoa ). Nó là một chất rất trơ. Các trihalua khác là các chất dime , có kiến trúc cầu nối.
Các hợp chất hữu cơ của nhôm có công thức chung AlR 3 tồn tại và nếu không phải là các phân tử lớn , thì là các chất dime hay trime . Chúng được sử dụng trong tổng hợp chất hữu cơ , ví dụ trimêtyl nhôm .
Các chất alumino-hyđrua của phần lớn các nguyên tố có xác xuất tích điện dương đã được biết , trong đó có giá trị nhất là hiđrua nhôm liti , Li[AlH 4 ]. Khi bị đốt nóng , nó phân hủy thành nhôm , hiđrô và hiđrua liti , nó bị thủy phân trong nước. Nó có nhiều vận dụng trong hóa hữu cơ. Các alumino-halua [AlR 4 ] có cấu trúc tương tự.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------
kim khí Nhôm
Nhôm là tên một nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn nguyên tố có ký hiệu Al và số nguyên tử bằng 13. Gõ chiêng la tử khối bằng 27 đvC. Khối lượng riêng là 2 , 7 g/cm3. Nhiệt độ nóng chảy là 660oC. Từ "nhôm" trong tiếng Việt có nguồn gốc từ aluminium trong tiếng Pháp.
thuộc tính
Nhôm là một kim khí mềm , nhẹ với màu xám bạc ánh kim mờ , vì có một lớp mỏng ôxi hóa tạo thành rất nhanh khi nó để trần ngoài khí trời . Tỷ trọng riêng của nhôm chỉ khoảng một phần ba sắt hay đồng ; nó rất mềm ( chỉ sau vàng ) , dễ uốn ( đứng thứ sáu ) và dễ dàng gia công trên máy móc hay đúc; nó có khả năng chống ăn mòn và vững bền do lớp ôxít gác canh. Nó cũng không nhiễm từ và không cháy khi để ở ngoài không khí ở hoàn cảnh thông thường .
Lịch sử
Tham chiếu hàng đầu tới nhôm ( mặc dù không thể chứng minh ) là trong Naturalis Historia của Gaius Plinius Secundus ( tức Pliny anh ):
Có một ngày một người thợ vàng ở Roma được phép cho hoàng đế Tiberius xem một chiếc đĩa ăn làm từ một kim khí mới. Chiếc đĩa rất nhẹ và có màu sáng như bạc . Địa ngục thợ vàng nói với hoàng đế rằng ông đã làm ra kim loại từ đất thó thô. Ông cũng cam đoan với hoàng đế rằng chỉ có ông ta và chúa Trời biết cách làm ra kim khí này từ đất sét. Hoàng đế rất huých , và như một chuyên gia về tài chính ông đã quan tâm tới nó. Tuy nhiên ông nhận ngay ra là mọi tài sản vàng , bạc của ông sẽ mất giá trị nếu như người dân bắt đầu làm ra kim loại màu sáng này từ đất sét. Bởi thế , thay vì cảm ơn người thợ vàng , ông đã ra lệnh chặt đầu ông ta .
Những người Hy Lạp và La Mã cổ đại đã sử dụng các loại muối của kim loại này như là thuốc cẩn màu ( nhuộm ) và như chất làm se vết thương , và phèn chua vẫn được sử dụng như chất làm se. Năm 1761 Guyton de Morveau dề xuất cách gọi gốc của Phèn trắng là alumine . Năm 1808 , Humphry Davy xác định được gốc kim khí của Phèn trắng ( alum ) , mà theo đó ông đặt tên cho nhôm là aluminium .
danh tiếng của Friedrich Wöhler nói chung được gắn liền với việc phân lập nhôm vào năm 1827 . Tuy nhiên , kim loại này đã được làm ra lần hàng đầu trong dạng không nguyên chất hai năm trước bởi nhà vật lý và hóa học Đan Mạch Hans Christian Ørsted .
Nhôm được chọn làm chóp cho đài kỷ niệm Washington vào thời gian khi một aoxơ ( 28 , 35 g ) đáng được coi trọng bằng hai lần ngày lương của người lao động.
Charles Martin Hall nhận được bằng sáng chế năm 1886 , về quy trình điện phân để sản xuất nhôm. Henri Saint-Claire Deville ( Pháp ) đã hoàn thiện thủ pháp của Wöhler ( năm 1846 ) và biểu lộ nó trong cuốn sách năm 1859 với hai cải tiến trong quy trình là thay thế kali thành natri và hai thay vì một ( chlorure ). Phát minh của quy trình Hall-Héroult năm 1886 đã làm cho việc làm ra nhôm từ khoáng chất trở nên không đắt tiền và hiện tại nó được sử dụng Đường bằng phẳng trên thế giới.
Nước Đức trở nên nhà sản xuất nhôm lớn nhất thế giới sau khi Adolf Hitler lên nắm quyền. Tuy nhiên , năm 1942 , những nhà máy thủy điện mới như Grand Coulee Dam đã cho phép Mỹ những thứ mà nước Đức quốc xã không thể được tràn đầy hy vọng cạnh tranh: khả năng sản xuất đủ nhôm để có khả năng sản xuất 60.000 máy bay khu trục trong bốn năm.
áp dụng
Tính theo cả số lượng lẫn giá trị , việc sử dụng nhôm vượt tất cả các kim khí khác , trừ sắt , và nó đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thế giới. Nhôm thuần khiết có sức chịu kéo thấp , nhưng tạo ra các hợp kim với nhiều nguyên tố như đồng , kẽm , magiê , mangan và silic . Khi được gia công cơ-nhiệt , các hợp kim nhôm này có các tính chất cơ học có xu hướng gia tăng so với bình thường đáng kể.
§ Các hợp kim nhôm làm nên một thành phần nông dân quan yếu trong các tàu bay và hoả tiễn do tỷ lệ sức bền cao trên cùng khối lượng.
§ Khi nhôm được bay hơi trong chân không , nó tạo ra lớp bao trùm v cả ánh sáng và bức xạ nhiệt . Các lớp bao trùm này tạo thành một lớp mỏng của ôxít nhôm gác canh , nó không bị hỏng hóc như các lớp bạc bao trùm vẫn hay bị. Trên thực tiễn , gần như tuốt các loại gương đương đại được sản xuất sử dụng lớp như: âm ba bằng nhôm trên mặt sau của sao thủy . Các gương của kính thiên văn cũng được phủ một lớp mỏng nhôm , nhưng là ở mặt trước để tránh các như: âm ba bên trong mặc dù điều này làm cho bề mặt nhạy cảm hơn với các tổn thương.
§ Các loại vỏ phủ nhôm đôi khi được dùng thay vỏ phủ vàng để phủ vệ tinh nhân tạo hay khinh khí cầu để tăng nhiệt độ cho chúng , nhờ vào phản ứng hấp thụ bức xạ điện từ của mặt trời tốt , mà bức xạ hồng ngoại vào ban đêm thấp.
§ Hợp kim nhôm , nhẹ và bền , được dùng để trở tạo các chi tiết của phương tiện vận chuyển ( ôtô , tàu bay , xe tải , toa xe tàu hỏa , tàu chạy đường biển , v.v. )
§ Đóng gói ( can , giấy gói , v.v )
§ xử lí nước
§ Xây dựng ( cửa sổ , cửa , ván , v.v; tuy nhiên nó đã đánh mất vai trò chính dùng làm dây dẫn phần sau chót của các mạng điện , trực tiếp đến người sử dụng )
§ Các hàng tiêu dùng có độ bền cao ( trang thiết bị , đồ nấu bếp , v.v )
§ Các đường dây tải điện ( mặc dù độ dẫn điện của nó chỉ bằng 60% của đồng , nó nhẹ hơn nếu tính theo khối lượng và rẻ tiền hơn )
§ chế tạo máy móc.
§ mặc dầu tự bản thân nó là không nhiễm từ , nhôm được sử dụng trong thép MKM và các nam châm Alnico .
§ Nhôm siêu thuần khiết ( SPA ) chứa 99 , 980%-99 , 999% nhôm được sử dụng trong Công lao điện tử và sản xuất đĩa CD .
§ Nhôm dạng bột thường nhật được sử dụng để tạo màu bạc trong sơn. Các bông nhôm có xác xuất cho thêm vào trong sơn lót , chính yếu là trong xử lý gỗ - khi khô đi , các bông nhôm sẽ tạo ra một lớp kháng nước rất tốt.
§ Nhôm dương cực hóa là yên ổn hơn đối với sự ôxi hóa , và nó được sử dụng trong các khu vực khác nhau của xây dựng.
§ phần lớn các bộ tản nhiệt cho CPU của các máy tính hiện đại được sản xuất từ nhôm vì nó dễ dàng trong làm ra và độ dẫn nhiệt cao.
§ Ôxít nhôm , alumina , được tìm thấy trong tự nhiên dưới dạng corunđum , emery , ruby và saphia và được sử dụng trong làm ra sao thủy. Ruby và saphia tổng hợp được sử dụng trong các ống tia laser để sản xuất ánh sáng có xác xuất giao thoa .
§ Sự ôxi hóa nhôm tỏa ra nhiều nhiệt , nó sử dụng để làm vật liệu rắn cho tên lửa , nhiệt nhôm và các thành phần nông dân của pháo bông .
§ phản ứng nhiệt nhôm dùng để điều chế các kim loại có nhiệt độ nóng chảy cao ( như crôm Cr Vonfarm W ... )
Sự phổ thông , phối chế
http://upload.wikimedia.org/wikipedi...C3%A9rault.JPG
Quặng Bauxite chứa nhôm.
mặc dù nhôm là nguyên tố phổ biến trong vỏ trái đất ( 8 , 1% ) , nó lại hiếm trong dạng không bị các nghĩa vụ hoặc trách nhiệm trói buộc và đã từng được cho là kim loại quý có giá trị hơn vàng ( Người ta nói rằng Napoleon III của Pháp có các bộ đồ ăn bằng nhôm đề phòng cho những người khách quý nhất của ông. Những người khách khác chỉ có bộ đồ ăn bằng vàng ). Bởi thế nhôm là kim khí tương đối mới trong Công lao và được sản xuất với số lượng Công lao chỉ khoảng trên 100 năm.
Nhôm khi mới được phát hiện là cực kỳ khó tách ra khỏi các loại đá có chứa nó. Vì tất nhôm của quả đất tồn tại dưới dạng các hợp chất nên nó là kim loại khó nhận được nhất. Lý do là nhôm bị ôxi hóa rất nhanh và ôxít nhôm là một hợp chất cực kỳ bền vững , không giống như gỉ sắt , nó không bị bong ra.
Sự tái chế nhôm từ các phế thải đã trở thành một trong những thành phần nông dân quan yếu của Công lao luyện nhôm . Việc tái chế đơn giản là nấu chảy kim khí , nó rẻ hơn dồi dào so với làm ra từ quặng. Việc tinh luyện nhôm hao hụt nhiều điện năng; việc tái chế định mức hao khoảng 5% năng lượng để sản xuất ra nó trên cùng một khối lượng sản phẩm. Mặc dù cho đến đầu thập niên 1900 , việc tái chế nhôm không còn là một khu vực mới. Tuy nhiên , nó là chuye hoạt động trầm lắng cho suốt những năm cuối thập niên 1960 khi sự Phát nổ của việc sử dụng nhôm để làm vỏ của các loại đồ uống , kể từ đó việc tái chế nhôm được đưa vào trong tầm để ý của cộng đồng. Các nguồn tái chế nhôm bao gồm ôtô cũ , cửa và cửa sổ nhôm cũ , các thiết bị Nhà ở cũ , contenơ và các sản phẩm khác.
Nhôm là một kim loại hoạt động và rất khó phân lập nó ra từ quặng , ôxít nhôm ( Al 2 O 3 ). Việc khử trực tiếp , nếu với cacbon , là không kinh tế vì ôxít nhôm có điểm nóng chảy cao ( khoảng 2.000 °C ). Bởi thế , nó được tách ra bằng cách điện phân – ôxít nhôm được hòa tan trong cryôlit nóng chảy và sau đó bị khử bởi dòng điện thành nhôm kim khí. Theo công nghệ này , nhiệt độ nóng chảy của hổ lốn chỉ còn khoảng 950-980 °C. Cryôlit nguyên thủy được tìm thấy như một khoáng chất ở Greenland , nhưng sau thời gian ấy được thay thế bằng cryôlit tổng hợp. Cryôlit là hỗn hợp của các florua nhôm , natri và canxi ( Na 3 AlF 6 ). Ôxít nhôm trong dạng bột màu trắng thu được từ quặng bôxít tinh chế , quặng này có màu đỏ vì chứa khoảng 30-40% ôxít sắt. Nó được tinh chế theo công nghệ Bayer . Trước khi có công nghệ này , công nghệ được sử dụng là công nghệ Deville .
Công nghệ điện phân thay thế cho công nghệ Wöhler , là công nghệ khử clorua nhôm khan với kali .
Các điện cực trong điện phân ôxít nhôm làm từ cacbon . Khi quặng bị nóng chảy , các ion của nó chuyển động tự do. Đặc tính tại catốt mang điện âm là:
Al 3+ + 3e - → Al
Ở đây các ion nhôm bị biến đổi ( nhận thêm điện tử ). Nhôm kim khí sau thời gian ấy chìm xuống và được đưa ra khỏi lò điện phân.
Tại cực dương ( anode ) ôxy dạng khí được tạo thành:
2O 2- → O 2 + 4e -
Cực dương cacbon bị ôxi hóa bởi ôxy . Cực dương bị hao mòn dần và phải được thay thế luôn luôn , do nó bị hao hụt do phản ứng:
O 2 + C → CO 2
trái lại với anốt , các catốt Hầu như không bị mất mát trong quá trình điện phân do không có ôxy ở gần nó. Catốt cacbon được gác canh bởi nhôm lỏng trong lò. Các catốt bị bào mòn chủ yếu là do các phản ứng điện hóa. Sau 5-10 năm , phụ thuộc vào dòng điện sử dụng trong quá trình điện phân , các lò điện phân cần phải tu sửa hết thảy do các catốt đã bị ăn mòn hoàn toàn.
Điện phân nhôm bằng công nghệ Hall-Héroult mất mát nhiều điện năng , nhưng các công nghệ khác luôn luôn có có lỗi về mặt kinh tế hay môi trường hơn công nghệ này. Chương trình hao hụt năng lượng phổ thông là khoảng 14 , 5-15 , 5 kWh/kg nhôm được làm ra. Các lò đương đại có mức tiêu thụ điện lực khoảng 12 , 8 kWh/kg. Dòng điện để thực hiện công việc điện phân này đối với các công nghệ cũ là 100.000-200.000 A . Các lò ngày nay làm việc với cường độ dòng điện khoảng 350.000 A. Các lò thí nghiệm làm việc với dòng điện khoảng 500.000 A.
Năng lượng điện chiếm khoảng 20-40% trong giá thành của sản xuất nhôm , nước phụ thuộc vào nơi đặt lò nhôm. Các lò luyện nhôm có khuynh hướng được đặt ở những khu vực mà nguồn cung cấp điện dồi dào với giá điện rẻ , như Nam Phi , đảo miền nam New Zealand , Úc , Trung Quốc , Trung Đông , Nga và Québec ở Canada .
Trung Quốc hiện là nhà sản xuất nhôm lớn nhất thế giới ( năm 2004 ).
Đồng vị
Nhôm có chín đồng vị , số Z của chúng từ 23 đến 30. Chỉ có Al-27 ( đồng vị yên ổn ) và Al-26 ( đồng vị phóng xạ , t 1/2 = 7 , 2 × 10 5 năm ) tìm thấy trong tự nhiên , tuy nhiên Al-27 có sự phổ quát trong tự nhiên là 100%. Al-26 được sản xuất từ agon trong khí quyển do va chạm ra đời bởi các tia vũ trụ proton . Các đồng vị của nhôm có ứng dụng thực tế trong việc tính tuổi của trầm tích dưới biển , các vết mangan , nước đóng băng , thạch anh trong đá lộ thiên , và các tinh thạch. Tỷ lệ của Al-26 trên beryli-10 được sử dụng để nghiên cứu vai trò của việc chuyển hóa , lắng đọng , lưu trữ trầm tích , thời kì cháy và sự xâm thực trong thang độ thời gian 105 đến 106 năm ( về sai số ).
Al-26 nguồn gốc vũ trụ đầu tiên được sử dụng để nghiên cứu trăng và các tinh thạch . Các thành phần của tinh thạch , sau khi thoát khỏi nguyên lai của chúng , trong lúc ngao du trong không gian bị tấn công bởi các tia vũ trụ , sinh ra các nguyên tử Al-26. Sau khi rơi xuống quả đất , tấm chắn khí quyển đã trông coi cho các phần tử này không ra đời thêm Al-26 , và sự phân rã của nó có thể sử dụng để chính xác tuổi trên trái đất của các thiên thạch này. Các nghiên cứu về tinh thạch cho thấy Al-26 là tự do tương đối phổ quát trong thời gian hình thành hệ hành tinh của chúng tôi. Có khả năng là năng lượng được giải phóng bởi sự phân rã Al-26 liên đới đến sự nấu chảy lại và sự sai dị của một số tiểu hành tinh sau khi chúng hình thành cách đây 4 , 6 tỷ năm.
cảnh báo
Nhôm là một trong ít các nguyên tố phổ thông nhất mà không có công năng có ích nào cho các cơ thể sống , nhưng có một số người bị dị ứng với nó — họ bị các chứng viêm da do tiếp xúc với các dạng khác nhau của nhôm: các vết ngứa do sử dụng các chất làm se da hay hút mồ hôi ( phấn rôm ) , các rối loạn tiêu hóa và giảm hay mất khả năng hấp thụ các chất dinh dưỡng từ thức ăn nấu trong các nồi nhôm , nôn mửa hay các triệu chứng khác của bị trúng độc nhôm do ăn ( uống ) các sản phẩm như Kaopectate® ( thuốc chống tiêu chảy ) , Amphojel® và Maalox® ( thuốc chống chua ). Đối với những người khác , nhôm không bị coi là chất độc như các kim loại nặng , nhưng có ám hiệu của bị trúng độc nếu nó được hấp thụ nhiều , mặc dầu việc sử dụng các đồ Bếp bằng nhôm ( phổ quát do khả năng chống ăn mòn và dẫn nhiệt tốt ) nhìn chung chưa cho thấy dẫn đến tình trạng bị trúng độc nhôm. Việc tiêu thụ qua nhiều các thuốc chống chua chứa các hợp chất nhôm và việc sử dụng lan tràn thặng dư các chất hút mồ hôi chứa nhôm dễ thường là nguồn độc nhất ra đời sự bị trúng độc nhôm. Người ta tuy là nhôm liên đới đến bệnh Alzheimer , mặc dầu các nghiên cứu gần đây đã bị bác bỏ.
Cần cẩn thận để không cho nhôm gặp mặt với một số chất hóa học nào đó có khả năng ăn mòn nó rất nhanh. Giá dụ , chỉ một lượng nhỏ thạch tín tiếp kiến với bề mặt của miếng nhôm có xác xuất phá hủy lớp ôxít nhôm canh giữ thông thường có trên bề mặt các tấm nhôm. Trong vài giờ , thậm chí cả một một cái xà có cấu trúc nặng nề có xác xuất bị làm yếu đi một cách rõ rệt. Vì lý do này , các loại nhiệt kế thạch tín không được phép trong nhiều phi truờng và hãng điện cơ , vì nhôm là thành phần cấu trúc cơ bản của các máy bay.
Hóa học
thể trạng ôxi hóa 1
§ AlH được phối chế khi nhôm bị nung nóng ở nhiệt độ 1500 °C trong hiđrô .
§ Al 2 O được phối chế bằng cách nung nóng ôxít thông thường , Al 2 O 3 , với silic ở nhiệt độ 1800 °C trong chân không .
§ Al 2 S được pha chế bằng cách nung nóng Al 2 S 3 với vỏ nhôm ở nhiệt độ 1300 °C trong chân không. Nó mau chóng bị chuyển thành các chất ban sơ. Selenua được điều chế tương tự.
§ AlF , AlCl và AlBr tồn tại trong pha khí khi ba halua được nung nóng cùng với nhôm.
trạng thái ôxi hóa 2
§ Subôxít nhôm , AlO có thể được tồn tại khi bột nhôm cháy trong ôxy .
trạng thái ôxi hóa 3
§ quy tắc Fajans chỉ ra rằng cation hóa trị ba Al 3+ là không được mong tìm thấy trong các muối khan hay trong các hợp chất nhị phân như Al 2 O 3 . Hiđrôxít nhôm là một bazơ yếu và muối nhôm của các axít yếu , chẳng hạn như cacbonat , chẳng thể tạo ra. Muối của các axít mạnh , chẳng hạn như nitrat , là ổn định và hòa tan trong nước , làm nên các hiđrat với chí ít sáu phân tử nước kết tinh .
§ Hiđrua nhôm , ( AlH 3 ) n , có thể sản xuất từ trimêthyl nhôm và hiđrô dư dật. Nó cháy kèm nổ trong không khí. Nó cũng có khả năng được pha chế bằng phản ứng của clorua nhôm trên hiđrua liti trong dung dịch ête , nhưng không thể Cô đơn thành dạng tự do từ dung dịch.
§ Cacbua nhôm , Al 4 C 3 được sản xuất bằng cách nung nóng hổ lốn hai nguyên tố trên 1.000 °C. Các tinh thể màu vàng nhạt có kiến trúc lưới phức tạp , và phản ứng với nước hay axít loãng tạo ra mêtan . Axêtylua , Al 2 ( C 2 ) 3 , được phối chế bằng cách cho axêtylen đi qua nhôm nóng.
§ Nitrua nhôm , AlN , có khả năng được sản xuất từ các nguyên tố ở nhiệt độ 800 °C. Nó bị thủy phân bởi nước tạo ra amôniắc và hiđrôxít nhôm .
§ Phốtphua nhôm , AlP , được sản xuất na ná , và bị thủy phân thành phốtphin ( PH 3 ).
§ Ôxít nhôm , Al 2 O 3 , tìm thấy trong tự nhiên như là corunđum , và có khả năng điều chế bằng cách đốt nóng nhôm với ôxy hay nung nóng hiđrôxít , nitrat hoặc sulfat. Như là một loại đá quý , độ cứng của nó chỉ thua có xoàn , nitrua bo và cacborunđum . Nó cơ hồ không hòa tan trong nước.
§ Hiđrôxít nhôm có xác xuất được phối chế như là một chất kết tủa dạng gelatin bằng cách cho thêm amôniắc vào trong dung dịch của các muối nhôm. Nó là lưỡng tính , vừa là bazơ yếu vừa là axít yếu , có khả năng tạo ra các muối aluminat với kim khí kiềm . Nó tồn tại trong các dạng tinh thể khác nhau.
§ Sulfua nhôm , Al 2 S 3 , có thể điều chế bằng cách cho sulfua hiđrô đi qua bột nhôm. Nó là một chất đa hình.
§ Florua nhôm , AlF 3 , có thể phối chế bằng cách cho hai nguyên tố hiệu quả với nhau hay cho hiđrôxít nhôm hiệu quả với HF. Nó làm nên phân tử lớn , bay hơi không qua pha nóng chảy ở nhiệt độ 1.291 °C ( thăng hoa ). Nó là một chất rất trơ. Các trihalua khác là các chất dime , có cấu trúc cầu nối.
§ Các hợp chất hữu cơ của nhôm có công thức chung AlR 3 tồn tại và nếu không phải là các phân tử lớn , thìa là các chất dime hay trime . Chúng được sử dụng trong tổng hợp chất hữu cơ , ví dụ trimêtyl nhôm .
§ Các chất alumino-hyđrua của phần nhiều các nguyên tố có thể tích điện dương đã được biết , trong đó quý báu nhất là hiđrua nhôm liti , Li[AlH 4 ]. Khi bị đốt nóng , nó phân hủy thành nhôm , hiđrô và hiđrua liti , nó bị thủy phân trong nước. Nó có nhiều áp dụng trong hóa hữu cơ. Các alumino-halua [AlR 4 ] có cấu trúc tương tự.