Cây thuốc quý
Đinh lăng còn được gọi là cây gỏi cá. Cây có lá kép, mọc so le, lá 3 lần xẻ lông chim, mép khía có răng cưa. Hoa nhỏ màu trắng, mọc thành tán. Quả dẹt, dài 3-4mm, dày khoảng 1mm. Lá đinh lăng phơi khô, nấu lên có mùi thơm đặc trưng, dân gian gọi nôm na là mùi “thuốc bắc”.
Không chỉ là cây cảnh thông dụng, cây rau được ưa dùng, đinh lăng còn là một vị thuốc nam có tính năng chống dị ứng, giải độc thức ăn, chống mệt mỏi và làm tăng sức dẻo dai của cơ thể.
Trong dân gian, đinh lăng thường dùng để trị ho ra máu, chữa tắc tia sữa, làm mát huyết, lợi tiểu, chữa mẩn ngứa. Lá đinh lăng cũng được dùng để nấu canh với thịt, cá để bồi bổ cho sản phụ, người già hoặc người ốm mới dậy.
Theo y học cổ truyền, rễ đinh lăng có vị ngọt, hơi đắng, tính mát có tác dụng thông huyết mạch, bồi bổ khí huyết, lá có vị đắng, tính mát có tác dụng giải độc thức ăn, chống dị ứng, chữa ho ra máu, kiết lỵ. Nói chung, ngoài tác dụng lương huyết và giải độc thức ăn, những tính chất khác của đinh lăng gần giống như nhân sâm.
Một vài đơn thuốc có sử dụng Đinh Lăng:
Bồi bổ cơ thể, ngừa dị ứng
Lá đinh lăng tươi từ 150-200 g, nấu sôi khoảng 200 ml nước. Cho tất cả lá đinh lăng vào nồi, đậy nắp lại, sau vài phút, mở nắp và đảo qua đảo lại vài lần. Sau 5-7 phút, chắt ra để uống nước đầu tiên, đổ tiếp thêm khoảng 200 ml nước vào để nấu sôi lại nước thứ hai. Cách dùng lá tươi thuận tiện vì không phải dự trữ, không tốn thời gian nấu lâu, lượng nước ít, người bệnh dễ uống nhưng vẫn đảm bảo được lượng hoạt chất cần thiết.
Chữa tắc tia sữa
Rễ đinh lăng 40 g, gừng tươi 3 lát, đổ 500 ml nước sắc còn 250 ml. Chia làm 2 lần uống trong ngày. Uống khi thuốc còn nóng.
Chữa nổi mề đay, mẩn ngứa do dị ứng
Lá đinh lăng khô 80 g, đổ 500 ml nước sắc còn 25 0ml. Chia làm 2 lần uống trong ngày.
Ho suyễn lâu năm
Rễ đinh lăng, bách bộ, đậu sanh, rễ cây dâu, nghệ vàng, rau tần dày lá tất cả đều 8 g, củ xương bồ 6 g; Gừng khô 4 g, đổ 600 ml sắc còn 250 ml. Chia làm 2 lần uống trong ngày. Uống lúc thuốc còn nóng.
Phong thấp, thấp khớp
Rễ đinh lăng 12 g; Cối xay, hà thủ ô, huyết rồng, cỏ rễ xước, thiên niên kiện tất cả 8 g; Vỏ quít, quế chi 4 g (Riêng vị quế chi bỏ vào sau cùng khi sắp nhắc ấm thuốc xuống). Đổ 600 ml nước sắc còn 250 ml. Chia làm 2 lần uống trong ngày. Uống khi thuốc còn nóng.
==================================
ĐINH LĂNG
(Tieghemopanax fruticosus Vig)
• Tên đồng nghĩa : Polyscias fruticosa (L.) Harms, Nothopanax fruticosus (L.) Miq.
• Tên khác: Đinh lăng lá nhỏ, cây gỏi cá, Nam dương lâm.
• Tên nước ngoài : Ginseng tree (Anh), polyscias (Pháp).
• Họ : Nhân sâm (Araliaceae)
Cây nhỏ, xanh tốt quanh năm, có thể cao đến 2m, thân không gai, ít phân nhánh, mang nhiều vết sẹo to, màu xám. Lá to, mọc so le, kép lông chim 2 – 3 lần, dài 20 – 40 cm. Lá chét có răng cưa nhọn, đôi khi chia thùy, gốc và đầu thuôn nhọn, có mùi thơm khi vò nát, cuống lá dài, phát triển thành bẹ to ở phần cuối.
Cụm hoa mọc ở ngọn thành hình chùy ngắn mang nhiều tán, lá bắc rộng, sớm rụng, hoa nhỏ, màu lục nhạt hoặc trắng xám, đài 5 răng hàn liền, mép uốn lượn, tràng 5 cánh hình trái xoan, nhị 5, chỉ nhị ngắn, bầu hạ, 2 ô.
• Quả dẹt, hình trứng rộng, màu trắng bạc.
• Mùa hoa quả: tháng 4 – 7.
Cây dễ nhầm lẫn:
Nhiều loài khác cũng mang tên đinh lăng, nhưng không được dùng làm thuốc:
1. Đinh lăng lá tròn (Polyscias balfouriana Baill).
• Lá kép thường chỉ có 3 lá chét trên một cuốn dài, lá chét hình tròn, đầu tù.
2. Đinh lăng lá to hay đinh lăng lá ráng (Polyscias ilicifolia (Merr.) Baill.)
• Lá kép có 11 – 13 lá chét, lá chét hình mác có răng cưa to và sâu.
3. Đinh lăng trổ hoặc đinh lăng viền bạc (Polyscias guifoylei Baill.)
o Lá kép có 7 lá chét, lá chét thường có viền trắng, loại này lại có 2 thứ là:
Đinh lăng có nguồn gốc ở vùng đảo Polynésie ở Thái Bình Dương, cây được trồng ở Indonesia, Malaysia, Campuchia, Lào . .. Ở Việt Nam, đinh lăng đã có từ lâu trong nhân dân và được trồng khá phổ biến trong nhân dân và được trồng khá phổ biến ở vườn gia đình, trong đình chùa, trạm xá, bệnh viện. . . để làm cảnh, làm thuốc và rau gia vị.
Đinh lăng là loại cây ưa ẩm và có thể hơi chịu bóng, trồng được trên nhiều loại đất, thậm chí với 1 lượng đất rất ít trong chậu nhỏ, cây vẫn có thể sống được, theo kiểu cây cảnh bonsai. Trồng bằng cành sau 2 - 3 năm cây có hoa quả, chưa quan sát cây con mọc từ hạt.
Đinh lăng có khả năng tái sinh vô tính khoẻ. Đinh lăng được trồng phân tán ở khắp nơi, để làm cảnh, lá làm gia vị, rễ làm thuốc. Hiện nay một số nơi đã bắt đầu trồng đinh lăng với qui mô sản xuất thử (1000 – 2000 m2).
Đinh lăng được nhân giống bằng cành. Trong dân gian, khi trồng 1 vài cây trong chậu, trong bồn, góc sân, góc vườn, . . . người ta chỉ cần lấy 1 đoạn thân cành cắm xuống đất là được. Nếu trồng lớn, chọn cành bánh tẻ có đường kính từ 1 – 1,5 cm, cắt thành đoạn dài 5 – 7 cm, giâm trong cát ẩm (70%). Sau 7 – 10 ngày, hom giống nẩy mầm và sau 1,5 – 2 tháng có thể ra ngôi. Cành giâm lúc đầu chỉ ra rễ ở đầu dưới của cành. Thực tiễn thấy rằng, rễ này nhỏ và chất lượng kém hơn rễ phát sinh từ gốc chồi tái sinh. Tuy nhiên chồi tài sinh của đinh lăng ra rễ rất chậm. Đó là lý do tại sao đinh lăng lâu được thu hoạch. Vấn đề này đang được nghiên cứu để tìm giải pháp khắc phục.
Đất trồng đinh lăng cần nhiều màu, tầng canh tác sâu, tơi xốp, cao ráo, thoát nước và tiện tưới. Sau khi làm đất, khơi rãnh thoát nước hoặc lên thành luống, bứng cây con ra trồng với khoảng cách 0,8 x 0,6 m. Mỗi gốc cây cần bón lót 3 – 5 kg phân chuồng hoai mục. Đinh lăng trồng được quanh năm, tốt nhất là giâm cành vào tháng 7 – 8. Khi trồng nên cắt bớt lá để hạn chế thoát hơi nước giúp cây nhanh phục hồi. Cây ưa bóng và ưa ẩm nên có thể trồng xen dưới tán cây trong vườn. Thường xuyên làm cỏ, nhất là lúc mới trồng.
Từ giữa mùa xuất đến mùa thu, thời kỳ sinh trưởng mạnh, cần bón thúc cho cây. Dùng nước phân chuồng, nước giải pha loãng, phân vi sinh hoặc NPK, liều lượng tùy mức độ sinh trưởng của cây.
Đinh lăng không có sâu bệnh nghiêm trọng, cây trồng dau 7 – 10 năm mới được thu hoạch. Cây càng già, năng suất và chất lượng rễ càng cao.
Củ rễ thu hái vào mùa thu, lúc này rễ mềm, nhiều hoạt chất, rửa sạch. Rễ nhỏ đế nguyên, rễ to chỉ dùng vỏ rễ. Thái rễ mỏng, phơi khô ở chổ mát, thoáng gío để đảm bảo mùi thơm và phẩm chất. Khi dùng để nguyênnhoặc tẩm rượu gừng 5%. Sao qua rồi tẩm 5% mật ong, sao thơm.
Đinh lăng có các tác dụng sau:
• Tăng lực trên động vật thí nghiệm và trên người, thân và lá cũng có tác dụng tăng lực nhưng yếu hơn so với rễ.
• Bổ, làm tăng cân đối với động vật và người. Thân và lá cũng có tác dụng này. Nhưng yếu hơn.
• Làm tăng hiệu lực điều trị của cloroquin trong bệnh sốt sét thực nghiệm trên động vật.
• Tăng co bóp tử cung và tăng tiết niệu.
• Đinh lăng đã được nghiên cứ và chứng minh có tác dụng nội tiết kiểu oestrogen.
Nước sắc đinh lăng có tác dụng kháng đối với trùng roi Euglena viridis, trùng tiêm mao Paramoecium caudatum và một số động vật nguyên sinh khác trong nước ngâm rơm và nước ao. Nước sắc đinh lăng còn có tác dụng chống choáng phản vệ ở mức độ vừa, bảo vệ được 60% chuột lang qua cơn choáng.
Dựa theo kinh nghiệm dân gian, đinh lăng được áp dụng điều trị bệnh nhận bị lỵ amip cấp. Sau 10 ngày hết triệu chứng lâm sàng, và sau 16 ngày xét nghiệm lại, trong phân hết thể amip thực huyết, hết kén.
Đinh lăng có tác dụng kháng Entamoeba histolytica, làm đơn bào co thành kén và có tác dụng kích thích miễn dịch gây chuyển dạng lympho bào trong thí nghiệm nuôi cấy in vitro.
Đinh lăng đã được nghiên cứu tác dụng kích thích miễn dịch không đặc hiệu trong thí nghiệm gây mẫn cản chuột nhắt bằng hồng cầu cừu. Sau đó 4 ngày, mổ tách tế bào lách và ủ với kháng nguyên trong môi trường. Đếm số tế bào mảng dung huyết và thấy đinh lăng thể hiện tác dụng chống trầm uất theo nghiệm pháp “trạng thái thất vọng”, chống trầm uất. Trong thí nghiệm trên động vật được uống đinh lăng cũng như trong thí nghiệm in vitro, ủ tổ chức não hoặc gan với dịch chiết đinh lăng và sau đó định lượng hoạt độ men MAO, thấy đinh lăng có tác dụng ức chế mạnh hoạt độ men MAO ở não và gan. Đinh lăng còn có tác dụng giảm chứng tăng cholesterol trong máu gây theo cơ chế nội sinh bằng Tween 80.
Dịch chiết đinh lăng còn được thử tác dụng đối với ATPase màng tế bào, và thấy K+ Na+ ATPase đều được kích thích bởi dịch chiết thân, rễ và lá của cây. Đối với ATPase dạng hoà tan, kết quả tương tự như ATPase của màng tế bào. Sự kích thích hoạt tính men của dịch chiết đinh lăng có khả năng đối kháng sự kìm hãm K+ Na+ ATPase của amizanin. Đinh lăng còn có tác dụng kích thích tăng sinh lực ở động vật gây mệt mỏi, tác dụng kéo dài và bền vững.
Rễ đinh lăng có vị ngọt, tính bình. Lá vị nhạt, hơi đắng, tính bình. Dược liệu có tác dụng bổ 5 tạng, tiêu thực, tiêu sưng viêm, giải độc, bổ huyết, tăng sữa.
Rễ đinh lăng được dùng làm thuốc bổ tăng lực, chữa cơ thể suy nhược, gầy yếu, mệt mỏi, tiêu hoá kém, phụ nữ sau khi sinh ít sữa. Có nơi còn dùng chữa ho, ho ra máu, đau tử cung, kiết lỵ và làm thuốc lợi tiểu, chống độc.
Lá chữa cảm sốt, mụn nhọt sưng tấy, sưng vú, dị ứng mẫn ngứa, vết thương (giã đắp). Thân và cành chữa thấp khớp, đau lưng. Ngày dùng 1 – 6g rễ hoặc 30 – 50g thân cành dạng sắc thuốc. Có thể dùng rễ khô, tán bột hoặc rễ tươi ngâm rượu uống.
Ở Ấn Độ, đinh lăng được dùng làm thuốc, làm săn và trị sốt. Rễ và lá sắc uống có tác dụng lợi tiểu chữa sỏi thận, sỏi bàng quang, chứng khó tiểu tiện. Bột lá được giã với muối và đắp trị vết thương.
Đây là những tài liệu Tui thu thập từ rất nhiều Tác giả. Up lên để ACE tham khảo.